Tìm kiếm tin tức
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào quản lý giáo dục ở Việt Nam hiện nay
Ngày cập nhật 20/01/2021

Con người là sản phẩm của giáo dục. Con người có trình độ cao là kết quả của nền giáo dục hiện đại, hiệu quả, chất lượng, do vậy, hoạt động quản lý giáo dục có vai trò vô cùng to lớn đối với sự phát triển của đất nước. Những năm qua, công tác quản lý giáo dục nước ta đã có những định hướng bám sát mục tiêu, yêu cầu của công cuộc phát triển đất nước. Tuy nhiên, kết quả chưa đạt được như mong muốn, còn nhiều hạn chế, bất cập. Vấn đề đặt ra là phải thực sự đổi mới tư duy, hoạt động quản lý giáo dục, làm cơ sở cho giáo dục Việt Nam đổi mới căn bản và toàn diện.

Con người vừa là chủ thể thực hiện quản lý giáo dục, vừa là đối tượng của quản lý giáo dục. Hoạt động quản lý giáo dục hướng vào việc hình thành, bồi dưỡng và phát triển nhân cách, bồi dưỡng tri thức cho con người, do đó, quản lý giáo dục không được phép phạm sai lầm, bởi chỉ một sai lầm trong chính sách giáo dục có thể dẫn đến những hệ lụy rất lớn. Quản lý giáo dục là tác động có hệ thống, có kế hoạch và hướng đích của chủ thể quản lý ở các cấp, bảo đảm sự phát triển toàn diện và hài hòa của đối tượng giáo dục. Công cụ quản lý giáo dục là bằng pháp luật. Đối tượng của quản lý giáo dục là con người.

Trong xu thế hiện nay, khi chất lượng nguồn nhân lực trở thành yếu tố quan trọng quyết định trình độ, mức độ phát triển của quốc gia, là nhân tố tạo ra lợi thế cạnh tranh trong quá trình hợp tác và hội nhập quốc tế thì giáo dục Việt Nam vẫn đang phải giải quyết những vấn đề trong nội tại, cả về nội dung, phương pháp giáo dục và đội ngũ những người làm công tác giáo dục.

Phương pháp giáo dục chưa thực sự được đổi mới, chủ yếu dạy lý thuyết, ít thực hành, khiến học sinh, sinh viên bị hạn chế về kỹ năng thực hành, tư duy sáng tạo. Nội dung, chương trình giảng dạy còn lạc hậu, chưa đổi mới, nhiều nơi chú trọng quan tâm đến số lượng nhiều hơn chất lượng khiến chương trình bị quá tải; một số nơi chỉ quan tâm đến việc dạy “chữ”, thiếu quan tâm đến dạy “nhân” và “nghĩa”, “đức”, “tín”... khiến một bộ phận học sinh có biểu hiện lệch lạc, xuống cấp về đạo đức, lối sống.

Đội ngũ những người làm công tác giáo dục, bao gồm cả đội ngũ giáo viên, giảng viên và các nhà lãnh đạo, quản lý vẫn còn nhiều bất cập. Đặc biệt trong bối cảnh khoa học - công nghệ phát triển nhanh và mạnh mẽ như hiện nay, đội ngũ này đã bộc lộ những hạn chế cả về trình độ, kiến thức chuyên môn, về kỹ năng lãnh đạo, quản lý và các "kỹ năng mềm" khác, như ngoại ngữ, trình độ sử dụng, ứng dụng công nghệ.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về quản lý giáo dục

Tư tưởng Hồ Chí Minh về quản lý giáo dục là tư tưởng xây dựng một nền giáo dục mang tính nhân dân. Đó là nền giáo dục quốc dân có mục đích tu dưỡng nhân cách con người từ ngay trong quá trình trưởng thành và với tất cả mọi đối tượng. Trong Thư gửi các học sinh nhân Ngày khai trường đầu tiên dưới chế độ dân chủ cộng hòa, tháng 9-1945, Người viết: “Ngày nay, các em được cái may mắn hơn cha anh là được hấp thụ một nền giáo dục của một nước độc lập, một nền giáo dục nó sẽ đào tạo các em nên những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em”(1).

Ngay sau khi đất nước giành được độc lập năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Tư tưởng của Người về quản lý giáo dục thời kỳ này được thể hiện rất rõ qua việc ban hành nhiều sắc lệnh liên quan đến giáo dục, như Sắc lệnh về việc thành lập Nha bình dân học vụ (6-9-1945), Sắc lệnh về việc thiết lập một quỹ tự trị cho Trường đại học Việt Nam (10-10-1945), Sắc lệnh về việc thành lập Hội đồng Cố vấn học chính (10-10-1945)... Trong tác phẩm “Đời sống mới” năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra những việc cần làm ngay với giáo dục, đó là xóa bỏ nền giáo dục thực dân và xây dựng nền giáo dục mới xã hội chủ nghĩa. Và theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “cốt nhất là phải dạy cho học trò biết yêu nước, thương nòi. Phải dạy cho họ có chí tự lập, tự cường, quyết không chịu thua kém ai”(2).

Ngay từ thời điểm này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện tư tưởng giáo dục toàn dân, giáo dục toàn diện, giáo dục suốt đời. Đây có thể xem là 3 nội dung cơ bản bao quát toàn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, cũng là hướng đích của quản lý giáo dục nước nhà trong suốt những năm qua.

Về giáo dục toàn dân: Giáo dục toàn dân là việc xây dựng nền giáo dục hướng tới mọi đối tượng, ai cũng được học hành, không chỉ tập trung vào một bộ phận, một giai cấp, tầng lớp nào. Tuy có những kế thừa tư tưởng Nho giáo về giáo dục, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh về quản lý giáo dục có những bước tiến bộ vượt bậc. Nho học đặt ra mục đích rõ ràng là đào tạo ra những người quân tử (chỉ có đàn ông) với “tam cương, ngũ thường”, biết “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”... Mục tiêu của việc học được xác định rõ ràng là học để làm quan, nếu không làm quan được thì mới làm thầy. Còn tư tưởng Hồ Chí Minh là “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự Đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại”(3). Đặc biệt, ngay từ giữa thế kỷ XX, khi tư tưởng trọng nam khinh nữ còn tồn tại khá nặng nề, phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới, thì Người đã chủ trương xây dựng một nền giáo dục vì tất cả mọi người, “ai cũng được học hành”(4). Đây là một quan điểm mang tính bình đẳng, tiến bộ vượt bậc thời đó.

Về giáo dục toàn diện: Giáo dục toàn diện chỉ ra hướng đích của nền giáo dục là phải đào tạo ra những con người toàn diện cả về tư cách, nhân phẩm, đạo đức, chứ không chỉ có tri thức, kiến thức. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, giáo dục toàn diện là phải giáo dục đồng thời cả đạo đức cho học sinh, bởi theo Người, đạo đức đóng vai trò nền tảng cho sự phát triển nhân cách, bên cạnh “tài” thì “đức” là một nhân tố quan trọng hình thành nên con người toàn diện: “Tự mình không có đạo đức, không có căn bản... thì còn làm nổi việc gì?”(5). Nói chuyện với cán bộ sinh viên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, ngày 21-10-1964, Người chỉ rõ: “Dạy cũng như học phải biết chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc, rất là quan trọng. Nếu không có đạo đức cách mạng thì có tài cũng vô dụng”(6). Trong quá trình giáo dục, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn luôn nhấn mạnh dạy học là dạy kiến thức nhưng các thầy, cô giáo cũng phải luôn quan tâm, giữ gìn sức khỏe học sinh: “Cách dạy phải nhẹ nhàng và vui vẻ, chớ gò ép thiếu nhi vào khuôn khổ của người lớn. Phải đặc biệt chú ý giữ gìn sức khỏe của các cháu”(7). Để đạt mục tiêu giáo dục toàn diện, Người chỉ rõ, phải có sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình, xã hội và cần giáo dục ngay trong từng mối quan hệ cụ thể từ trong gia đình ra ngoài xã hội.

Về giáo dục suốt đời: Giáo dục suốt đời được xem là tư tưởng tiến bộ vượt bậc của Người vào thời điểm đó. Học tập suốt đời chính là bao hàm hai yếu tố học tập toàn dân và toàn diện. Chỉ khi xây dựng được nền giáo dục toàn dân và toàn diện thì sẽ bảo đảm được mục đích học tập suốt đời. Đây là luận điểm quan trọng mà giáo dục Việt Nam hiện đại đang rất cần nghiên cứu, áp dụng. Việc hình thành nhân cách con người là do yếu tố gia đình trước hết, nhưng việc biến đổi, phát triển nhân cách con người lại do tác động xã hội là chủ yếu. Do vậy, trong suốt cuộc đời, con người vẫn luôn phải học tập, tu dưỡng, rèn luyện, luôn phải tự trang bị các kiến thức, kỹ năng cần thiết. Xây dựng một xã hội học tập, bảo đảm cho mọi người dân đều được học khi có nhu cầu là nền tảng quan trọng và bền vững cho sự phát triển của đất nước.

Thực tiễn quản lý giáo dục Việt Nam hiện nay - soi chiếu từ tư tưởng Hồ Chí Minh

Tư tưởng quản lý giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được nền giáo dục Việt Nam kế thừa và thực hiện trong những năm qua. Tư tưởng này được thể hiện nhất quán trong đường lối, chủ trương phát triển giáo dục của Đảng, Nhà nước.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư cho phát triển. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã hội; nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời”(8).

Đại hội XI của Đảng xác định: “Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa; đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học; đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, đào tạo. Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành”(9). Việc phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo được cụ thể hóa bằng các chủ trương phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý đối với tất cả các ngành, nghề: kinh tế, văn hóa, khoa học, công nghệ… Có thể nói, từ Đại hội XI của Đảng, các vấn đề liên quan đến giáo dục, đào tạo đã được đề cập một cách tương đối toàn diện và bao quát. Đặc biệt, Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 4-11-2013, của Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” đã nêu rõ 7 quan điểm chỉ đạo nhằm thực hiện mục tiêu: “Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả. Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc”(10)

Đại hội XII của Đảng đã nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học”(11), “Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân”(12), nhằm “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện”(13).

Từ khi thành lập nước năm 1945 đến nay, Việt Nam đã và đang thực hiện nhiều cuộc cải cách giáo dục. Tuy nhiên, điểm khác biệt là 4 cuộc cải cách trước đây chủ yếu xuất phát từ việc thay đổi cấp học, số năm học các hệ, từ đó kéo theo sự thay đổi chương trình sách giáo khoa, cải tiến chữ viết. Còn cuộc cải cách “

Theo Báo cáo về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo: Thực trạng và giải pháp, của Bộ Giáo dục và Đào tạo, ngày 7-3-2018, 100% các tỉnh/thành phố đạt chuẩn quốc gia phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 2; toàn quốc có 8.481 trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia (đạt tỷ lệ 56,78%). Nhiều chỉ số về giáo dục của Việt Nam được đánh giá cao trong khu vực: tỷ lệ huy động trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt 99% (đứng thứ 2 khu vực ASEAN, chỉ sau Singapore); tỷ lệ học sinh đi học và hoàn thành chương trình tiểu học sau 5 năm đạt 92,08%, đứng top đầu ASEAN; học sinh Việt Nam tham gia kỳ đánh giá quốc tế PASEC 10 năm 2011 đạt kết quả cao nhất trong cộng đồng các nước nói tiếng Pháp, các cuộc thi toán, IMC, Robotics, cờ vua... đều đạt thứ hạng cao(14).

Nhìn chung, trong gần 35 năm đổi mới, giáo dục và đào tạo đã đạt được nhiều thành quả quan trọng, đã tạo ra nguồn nhân lực phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. “Quy mô, mạng lưới cơ sở giáo dục và đào tạo tiếp tục được mở rộng. Hệ thống giáo dục và đào tạo các cấp từ cơ sở đến đại học, dạy nghề được tổ chức lại một bước”(15).

So với thời điểm trước khi ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW, công tác xóa mù chữ cho đồng bào dân tộc thiểu số cơ bản đạt mục tiêu là 97,65% (mục tiêu là 98%), 100% đơn vị cấp tỉnh, huyện và 99% đơn vị cấp xã đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 1 và 80,3% đơn vị cấp xã được công nhận xóa mù chữ mức độ 2.

Về ngoại ngữ, trước năm 1994, Chỉ số EF EPI (Chỉ số Thông thạo Anh ngữ -English Proficiency Index) của Việt Nam chưa ổn định, năm 2011 còn thuộc nhóm rất thấp, năm 2012 thuộc nhóm thấp, nhưng từ năm 2015 đến nay đã ở nhóm trung bình. Năng lực tiếng Anh của học sinh lứa tuổi 15 khá cao (tương đương B1) so với học sinh nhiều nước phát triển.

Tuy nền giáo dục Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế:

Thứ nhất, các giá trị cao quý của nhà giáo, người thầy, của nhà quản lý giáo dục vốn từ xưa được tôn vinh, đề cao thì nay có lúc, có nơi có phần mai một trước những cám dỗ về vật chất. Đó là tình trạng một số giáo viên còn thiếu tâm huyết với nghề, tình trạng dạy thêm, tặng quà nặng về giá trị vật chất, sự thiếu khăng khít và tôn sư trọng đạo trong quan hệ thầy - trò…

Thứ hai, trong bối cảnh xã hội thông tin, khi kiến thức mọi mặt, mọi lĩnh vực có thể được tiếp thu từ nhiều nguồn qua sách, báo, đặc biệt là qua mạng internet, thì một bộ phận giáo viên chưa đáp ứng được yêu cầu thời kỳ mới, mới chỉ truyền thụ tri thức mà chưa hoàn thành vai trò người dẫn lối, định hướng cho học trò, chưa thường xuyên cập nhật kiến thức, xây dựng phương pháp, nội dung học tập phù hợp với đối tượng học, chưa áp dụng phương pháp dạy mới, gắn với thực tiễn, thiếu “kỹ năng mềm” khác như khả năng sử dụng công nghệ, khả năng ngoại ngữ, khả năng giao tiếp, đối thoại...

Thứ ba, hệ thống giáo dục thiếu tính liên thông, ở cả chiều dọc theo các cấp học và chiều ngang theo hệ thống các trường bậc đại học. Hệ quả là đối với nhiều chương trình, học sinh, sinh viên phải học lại gây lãng phí thời gian, ngành giáo dục phải đào tạo lại gây lãng phí nhiều nguồn lực.

Thứ tư, việc hợp tác, liên kết với nước ngoài, hội nhập quốc tế của ngành chưa thực sự hiệu quả. Việt Nam là nước có ít trường đại học được xếp loại trên thế giới, giáo dục Việt Nam dường như vẫn “đóng” với giáo dục thế giới, bằng cấp, chứng chỉ của Việt Nam ít được thế giới công nhận.

Một số vấn đề đặt ra và giải pháp

Một là, xác định rõ mục tiêu, yêu cầu, định hướng của quản lý giáo dục trong bối cảnh mới

Trong bối cảnh hiện nay, mục tiêu, yêu cầu, định hướng của quản lý giáo dục cần được xác định rõ là phải gắn với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với tiến bộ khoa học - công nghệ, với định hướng phát triển nguồn nhân lực. Muốn vậy, ngành giáo dục phải chuyển mạnh từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học, hướng đến đào tạo toàn diện con người, cả về trí, đức, thể, mĩ... và phát huy tối đa khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân. Có thể thấy, Nghị quyết số 29-NQ/TW đã thực sự tiếp cận đổi mới giáo dục, đào tạo theo hướng tổng thể, toàn diện và có hệ thống.

Hai là, tăng cường giáo dục toàn diện, đổi mới tư duy quản lý giáo dục

Cần có sự điều chỉnh theo hướng giáo dục toàn diện, từ kiến thức đến đạo đức, lối sống, kỹ năng sống, thể chất, ngoại ngữ,… Muốn đạt mục tiêu này, giáo dục phải thực sự đổi mới từ hoạt động quản lý. Phương pháp quản lý giáo dục sẽ định hình cho phương pháp giáo dục, tư tưởng của các nhà quản lý giáo dục sẽ quyết định phương thức, nội dung giáo dục.

Thời gian qua, hoạt động kiểm tra, đánh giá đã chuyển từ đánh giá kiến thức sang đánh giá phát triển năng lực người học. Thông tư số 30/2014/TT-BGDĐT, ngày 28-8-2014, của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về “Ban hành Quy định đánh giá học sinh tiểu học”; Thông tư số 22/2016/TT-BGDĐT, ngày 22-9-2016 về “Sửa đổi Quy định đánh giá học sinh tiểu học” đã thay việc chú trọng điểm số sang phương thức đánh giá mang tính động viên, khuyến khích. Đối với cấp phổ thông cơ sở và phổ thông trung học đánh giá theo hướng chú trọng cách học, khả năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, đặc biệt đối với một số trường chuyên, chất lượng cao, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng chỉ đạo đánh giá chỉ số IQ (Chỉ số thông minh), AQ (Chỉ số biểu thị khả năng vượt qua nghịch cảnh, bất hạnh), EQ (khả năng của một người hiểu rõ chính bản thân mình cũng như thấu hiểu người khác)…

Ba là, gắn định hướng giáo dục với định hướng phát triển kinh tế - xã hội

Thực tiễn đã cho thấy, đối với bất kỳ quốc gia nào thì định hướng giáo dục luôn có vai trò quan trọng đối với xã hội và luôn gắn với định hướng phát triển đất nước, phát triển con người. Tuy nhiên, cách thức thực hiện lại không hoàn toàn giống nhau và tùy thuộc vào nhiều yếu tố, từ lịch sử, văn hóa truyền thống đến chủ trương, chính sách, cơ chế, mức đầu tư cho giáo dục, đào tạo của Nhà nước, điều kiện, hoàn cảnh xã hội thực tại. Việt Nam đang trong giai đoạn hội nhập sâu, rộng với thế giới, chứng kiến sự phát triển vũ bão của nền kinh tế tri thức, kinh tế số và mối quan hệ giữa kinh tế - giáo dục đang trở nên ngày càng khăng khít, có tác động, ảnh hưởng lẫn nhau một cách nhanh chóng và trực tiếp. Kinh tế phát triển dựa trên nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ tạo ra giá trị vật chất lớn để đầu tư cho giáo dục, đào tạo chất lượng cao. Giáo dục phát triển cũng tác động tích cực, trực tiếp đến kinh tế và trong bối cảnh hiện nay cung cấp nguồn nhân lực trí tuệ cho nền kinh tế là động lực nhanh nhất thúc đẩy kinh tế phát triển. Đây là bài toán Việt Nam đang rất nỗ lực giải quyết. Nghị quyết số 29-NQ/TW chính là nhằm giải quyết vấn đề này; do vậy, quyết tâm, nỗ lực, tạo mọi cơ sở, điều kiện thuận lợi để thực hiện hiệu quả Nghị quyết trên là giải pháp căn bản, cấp thiết.

Bốn là, tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý

Từ năm 1994 đến nay, đã có hàng trăm văn bản pháp lý được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành nhằm tháo gỡ dần các “nút thắt” cản trở thực hiện đổi mới giáo dục(16). Luật Giáo dục và các đạo luật liên quan cũng liên tục được sửa đổi, bổ sung. Tuy nhiên, nhiều vấn đề liên quan đến hoạt động quản lý cũng như thực tiễn hoạt động giáo dục, như dạy nghề, hoạt động của các trường đại học, giáo dục sau đại học, dạy học trực tuyến… vẫn chưa được quy định rõ ràng, thiếu thống nhất, thiếu đồng bộ, thiếu tính liên thông… Do đó, việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật phù hợp với thực tiễn đang là vấn đề cấp thiết đặt ra.

Năm là, nâng tầm giáo dục Việt Nam, hướng tới giáo dục Việt Nam được công nhận ở nhiều nước trên thế giới

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, chương trình giáo dục, nhất là giáo dục đại học tại Việt Nam hiện nay cho thấy còn nhiều bất cập, kém hiệu quả. Đây cũng được coi là nguyên nhân cơ bản khiến nền giáo dục đại học ở Việt Nam đang có xu hướng tụt hậu. Một trong các vấn đề cốt lõi là giáo dục Việt Nam phải thực sự tiếp cận với các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học đại học phổ biến của thế giới, tiến tới hòa nhập nền giáo dục thế giới. Một trong các thước đo quan trọng là sự công nhận bằng cấp lẫn nhau của hệ thống giáo dục Việt Nam và các nước, là xếp hạng của các cơ sở đào tạo của Việt Nam trên “bản đồ” giáo dục thế giới./.

-----------------

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 4, tr. 34
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 120
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 208
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 187
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 293
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14, tr. 400
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 186
(8), (9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 77, 41
(10) Văn kiện Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, tr. 121 - 122
(11), (12), (13), (15) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 115, 115, 126, 113
(14), (16) Bộ Giáo dục và Đào tạo: Báo cáo về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo: Thực trạng và giải pháp, ngày 07-3-2018

 

TS. NGUYỄN THỊ MAI ANH

Tạp chí Cộng sản

Tin cùng nhóm
Các tin khác
Xem tin theo ngày  
Thống kê truy cập
Truy cập tổng 2.805.741
Truy cập hiện tại 828